Lược sử về đức Phật Thích Ca Mâu Ni – Sakyamuni
I )- Từ Đản Sinh tới Thành Đạo:
1)- Đản sinh
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ. Nay thuộc nước Tích Lan (Nepal) ở gần chân núi Hi Mã Lạp Sơn (Himalaya) cách thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu) khoảng 15 cây số (gần 10 dặm Anh). Hoàng hậu Ma Da (Maha Maya) của Vua Tịnh Phạn (Suddhodana) thuộc qúy tộc Thích Ca (Sakya) họ Cù Đàm (Gotama) hạ sinh một Hoàng tử.
Sau khi sinh được bảy ngày, Hoàng hậu băng hà, sinh lên cõi trời Đâu Suất, Vua Tịnh Phạn giao Hoàng Tử cho em gái ruột của Hoàng hậu là Ma Ha Bà Xà Ba Đề (Mahã Pajãpati), kế mẫu nuôi dưỡng chăm sóc.
Tin Hoàng tử chào đời được loan truyền trong nhân gian, thần dân vui mừng, Vua mời một số đạo sĩ đến coi tướng, các đạo sĩ đều nói Hoàng tử có 32 tướng tốt, trên đời chưa thấy ai có; nếu sau này làm vua sẽ là một Hoàng Đế nhân đức anh minh, còn nếu xuất gia học đạo sẽ là bậc đại Thánh, một đại vĩ nhân. Vì vậy Vua đặt tên là Sĩ Đạt Ta (Siddhartha) có nghĩa là toại nguyện, Vua cũng phong cho Sĩ Đạt Ta là con trưởng sẽ nối ngôi vua sau này, nên gọi là Thái tử Sĩ Đạt Ta.
2)- Tuổi niên thiếu:
Thái tử mỗi năm mỗi lớn, diện mạo càng thêm khôi ngô tuấn tú, tài năng phát triển vượt bực, Thái tử có một sức khoẻ cường tráng, một trí óc thông minh xuất chúng, từ văn đến võ, các trai tráng trong hoàng tộc không ai sánh kịp, học thầy nào cũng chỉ trong một thời gian ngắn là học hết quyền thuật chữ nghĩa của thầy. Mặc dù tài sức hơn người, nhưng Thái tử không bao giờ tỏ ra kiêu ngạo khinh người, trái lại có một thái độ nhã nhặn, thương người thương vật, vô tư bình đẳng, do đó Thái tử được Vua cha thương yêu qúy mến chiều chuộng; những người chung quanh mến trọng nể vì.
3)- Lễ Hạ Điền:
Một hôm, nhân ngày lễ Hạ Điền (lễ bắt đầu làm ruộng của nhà nông trong một năm) vào ngày đầu xuân, Thái tử theo Vua cha ra đồng. Mọi người vui vẻ với buổi lễ trong cảnh gió xuân nắng ấm hoa lá tốt tươi, muôn chim hót vang trong cảnh êm đẹp thái bình; trong khi mọi người mải vui với buổi lễ như thế, Thái tử ngồi một mình bắt chéo hai chân như người ngồi thiền dưới bóng cây. Thái tử nghĩ rằng những cảnh đẹp, chứ thực ra không phải thế, như trâu bò khổ cực kéo cày, người nông dân phải làm việc cực khổ, chân lấm tay bùn để có cơm ăn áo mặc. Thái tử ngồi một mình suy nghĩ trầm tư như thế rồi vào định tâm . . .
4)- Thành hôn:
Thấm thoắt Thái tử đã 16 tuổi, các việc học hành tập luyện đều chu toàn đầy đủ, có vóc dáng của người hai chục tuổi, lại khôi ngô tuấn tú. Vua Tịnh Phạn muốn con mình sẽ nối ngôi sau này nên ép Thái tử thành hôn với Công chúa Da Du Đà La (Yasodhara) đẹp đẽ nết na chu toàn cùng tuổi. Vua cho lập cung điện bốn mùa thay đổi, chọn các mỹ nữ trẻ đẹp hầu hạ Thái tử; chung quanh cung điện là ao hồ, vườn cây luôn đẹp đẽ xanh tươi, hoa lá rực rỡ như cảnh thần tiên. Đời sống vương giả thật đầy đủ, cao lương mỹ vị, đàn ca múa hát, ngày đêm có người luân phiên chầu chực hầu hạ, lên xe xuống ngựa trong hoàng thành rộng lớn.
Cuộc đời nhung lụa sung sướng với vợ đẹp hiền ngoan như thế đã trên mười năm, mọi người tưởng rằng Thái tử sẽ tiếp tục sống mãi như thế tới ngày Vua cha truyền ngôi để trì vì đất nước. Rồi Công Chúa sinh con trai tên La Hầu La, Vua Tịnh Phạn càng thêm vui mừng, vì có thêm sự ràng buộc Thái tử hơn nữa. Mặc dù sống đời sung sướng, vợ đẹp, con ngoan, Thái tử vẫn thấy trong lòng nặng trĩu nỗi băn khoăn thắc mắc đời sống thật sự bên ngoài hoàng thành.
5)- Nhận rõ cảnh khổ:
Một hôm, Thái tử xin Vua cha cho người hướng dẫn đi dạo ra ngoài cửa thành ngắm cảnh, ra đến cửa Đông, Ngài thấy một ông già đầu bạc trắng, lưng còng, răng rụng, lần bước đi một cách khó khăn; đến cửa Nam, Ngài thấy một người nằm co quắp trên cỏ đang kêu la đau đớn, hỏi thăm được biết người này đang bị bệnh; đến cửa Tây, Ngài thấy một người chết nằm bên đường. Thấy ba cảnh tang thương ấy, Thái tử nhận rõ bộ mặt thật của cuộc đời là khổ, những cảnh xa hoa trong hoàng cung chỉ là giả dối; Ngài muốn tìm cách giải quyết làm sao để cứu chúng sanh khỏi khổ đau, bệnh, chết, nhưng Ngài chưa biết phải làm gì, nên trong lòng Ngài nặng nề hơn.
Mấy ngày sau, Thái tử lại xin đi dạo chơi, lần này ra cửa Bắc, Ngài thấy một người ngồi kết già dưới gốc cây, thản nhiên không để ý các người qua lại; thấy vậy, Ngài có một sự cảm mến với vị ấy, và hé nảy sinh con đường cứu bệnh khổ già chết trong tâm tư, Ngài liền trở về cung thưa với Vua cha xin xuất gia học đạo, nhưng bị từ khước. Thái tử trình Vua bốn sự việc nếu Vua giải quyết được, Ngài sẽ bỏ việc học đạo, đó là:
1- Làm sao mọi người trẻ mãi không già,
2- Làm sao mọi người khỏe mãi không bệnh,
3- Làm sao mọi người sống mãi không chết,
4- Làm sao mọi người hết khổ.
Vua nghe Ngài hỏi như thế, buồn rầu không giải quyết được, và nói: “Những việc đó là thường ở đời, đương nhiên phải già, bệnh, khổ, chết, không có cách nào giải quyết được, đành chịu mà thôi”.
6)- Xuất gia tìm đạo:
Lúc này, Vua lại tìm đủ cách để giữ chân Thái tử, nhưng từ khi thấy bốn cảnh ở bốn cửa thành, Ngài đã tìm ra được giải đáp: “Ở đời là khổ, tất cả chỉ là tạm bợ, ngay cả cái thân ta mai này cũng sẽ vào cát bụi. Ta phải tìm chân lý để cứu mình và cứu tất cả chúng sinh”. Ngài đã nhất quyết trong lòng con đường tìm chân lý giải thoát. Cung vàng điện ngọc, địa vị giàu sang, vợ đẹp con ngoan, sống sung sướng v.v…. không thể sánh với sự giải thoát to lớn và cứu độ chúng sanh khỏi khổ đau.
Trong một đêm khuya, mọi người đương giấc ngủ say sưa, Thái tử Sĩ Đạt Ta nhìn vợ con đang an giấc, rồi cùng với người giữ ngựa lặng lẽ rời khỏi hoàng thành trong đêm tối. Lúc đó Ngài 29 tuổi, tuổi tráng niên cường lực, dứt bỏ hết để ra đi tìm đạo với hai bàn tay trắng, để sống một cuộc đời chưa biết sẽ ra sao.
Sáng hôm sau, khi đã vượt qua sông Anoma (Neranjara), Ngài dừng chân trên bãi cát, dùng thanh kiếm sắc bén tự cạo râu tóc xong trao áo mão (mũ) kiếm cho người giữ ngựa đem trở về trình Vua; Ngài khoác vào mình tấm vải vàng cam làm áo, tự nguyện sống đời tu sĩ, và chấp nhận mọi sự thiếu thốn vật chất. Từ một người sống trong nhung lụa giàu sang quyền qúy, bỗng nhiên trở thành người đi lang thang trong nóng nực, lạnh lẽo, như người bất định trong sương gió. Đầu đội trời, chận đạp đất, không giày dép mũ nón, chỉ một mảnh vải che thân, không nhà không cửa. Đạo sĩ Cù Đàm lấy bóng cây hang đá là nhà để tránh nắng che mưa, trú dông bão tố, mang bát đi khất thực để sống v.v…
Ngài tìm đến học đạo với đạo sĩ Alarama Kalama, Ngài học và hành, đạt những gì đạo sĩ ấy đạt; Đạo sĩ Alarama Kalama mời Ngài cộng tác dạy đám đệ tử, nhưng Ngài từ chối vì không thỏa mãn những gì đã đạt được. Đạo sĩ Cù Đàm rời vị ấy tìm đến một vị thứ hai, đạo sĩ Uddaka Ramaputta, Ngài học và cũng chứng những gì vị ấy chứng; vị thứ hai nhường cho đạo sĩ Cù Đàm làm đạo sư hướng dẫn các đạo sĩ ở đó, nhưng sự chứng không giải quyết được những điều mà Ngài mong muốn, chưa phải là chân lý, chưa phải là Niết Bàn tối thượng, do đó Ngài lại ra đi.
7)- Tu Khổ Hạnh
Đạo sĩ Cù Đàm đi đến vùng ngoại thành Vương Xá nước Ma Kiệt tự tu tập một mình, lúc ấy có đạo sĩ Kiều Trần Như là người trẻ nhất trong số đạo sĩ được Vua Tịnh Phạn mời xưa kia khi mới sinh Hoàng tử Sĩ Đạt Ta. Ông nghe tin Thái tử đã xuất gia học đạo, nên dẫn bốn người đồng tu tìm đến gặp Ngài để cùng tu.
Thời bấy giờ, nhiều người có quan niệm: “Chỉ có tu khổ hạnh mới giải thoát được”, nên ông Kiều Trần Như đã thuyết phục Ngài nhập chung với năm người cùng tu khổ hạnh. Do đó đạo sĩ Cù Đàm đã khép mình để cùng tu trong thời gian dài trên năm năm khổ hạnh.
Từ một thân hình cường tráng khỏe mạnh dần dần cho đến một thân hình chỉ còn da bọc xương, dùng vô số phương tiện của khổ hạnh để tu, Ngài chỉ ăn rau cỏ để thiền, nhịn thở để thiền, chỉ ăn một vài hạt đậu và một ít nước mỗi ngày để thiền v.v…
Thân hình đạo sĩ Cù Đàm trở nên gầy còm đến nỗi xương bàn tọa ngồi như móng con lừa, xương sống như xâu chuỗi hột, lưng còng xuống, xương sườn phơi ra tựa như sườn nhà bị đổ, hai mắt hõm vào như sao dưới đáy giếng sâu thẳm. Khi sờ da bụng lại đụng xương sống, đi lại té tới ngã lui, Ngài cứ phải đập nhè nhẹ vào thân làm cho tỉnh táo, thì lông từ da không còn sức bám rơi xuống lả tả; nước da trước kia hồng hào tươi mát, lúc đó chỉ còn thấy là màu sạm đen như da người chết!
Mặc dù khổ hành đến cùng cực như thế, mặc dù không ai tinh tấn bằng đạo sĩ Cù Đàm, các đạo sĩ vẫn cho là cần phải tiếp tục khổ hạnh để đạt chân lý; thấy rõ ràng sau khi trải qua thời gian dài khổ hạnh như thế, cái chết đã gần kề, đạo qủa chân lý chẳng thấy đâu, trí thức suy giảm, tinh thần mệt mỏi, Ngài quyết định dứt khoát từ bỏ lối tu khổ hạnh. Vì cần có một thân hình khỏe mạnh, một trí óc sáng suốt để suy gẫm đạt chân lý, nên Ngài bắt đầu dùng vật thực thô sơ trở lại.
8)- Tu Trung Đạo
Quyết định từ bỏ lối sống khổ hạnh, nhưng Ngài cũng không quay lại lối sống lợi dưỡng, mà vạch ra đường lối tu Trung đạo, Ngài biết rằng tu bằng đường Trung đạo sẽ tác thành nhẫn, tác thành trí tự tại, tác thành định đưa đến trí, sẽ đưa đến giác ngộ.
Năm vị đạo sĩ đồng tu thấy thế liền chê trách: “Đạo sĩ Cù Đàm không đủ kiên nhẫn”, họ liền bỏ đi; không vì thế mà thối chí ngã lòng, một mình Ngài trong chốn rừng sâu tu tập.
Bấy giờ, đạo sĩ Cù Đàm nghĩ rằng: “Ta đã đi tìm hết các nơi, không có một ai đủ khả năng dẫn dắt ta thành tựu mục tiêu mà ta mong muốn, vì chưa ai ra khỏi sự vô minh”. Ngài bèn đi đến vùng ngoại thành Vương Xá nước Ma Kiệt tự tu tập một mình, nơi có dòng sông trong mát, cây cối xanh thẳm, hoa lá tốt tươi. Đi đến dưới gốc cây Bồ Đề lấy cỏ làm nệm ngồi thiền định, Ngài thề nguyện rằng: “Nếu không đạt chân lý dù thịt nát xương tan ta cũng không rời khỏi chỗ này”. Ngài đã liên tiếp trải qua nhiều gian nan thử thách về nội tâm tham, sân, si, mạn, nghi v.v…, rồi sau lại phải chiến đấu với ngoại cảnh Thiên ma dùng đủ mọi tà pháp hòng cản trở Ngài việc thiền định; rút cục Ngài chiến thắng cả nội tâm lẫn ngoại cảnh, tâm trí được yên ổn trong thiền định.
9)- Thành Đạo:
Trong đêm thứ 49, vào khoảng 10 giờ lúc canh hai, Ngài chứng “Túc mệnh minh”, thấy rõ tất cả các đời qúa khứ một đời, hai đời, ba đời, mười đời, trăm đời, nghìn đời; sinh chỗ này, tên là gì, cuộc sống ra sao, chết sinh vào đâu v.v…, tất cả đều biết hết. Tiếp tục thiền định, tới khoảng nửa đêm lúc canh ba, Ngài chứng “Thiên nhãn minh”, thấy được tất cả bản thể vũ trụ, biết cấu tạo thế giới vũ trụ thành trụ hoại diệt (thành lập, sống còn, tiêu hủy, chết mất) như thế nào, đều biết hết thảy. Vẫn kiên cố hành thiền tam muội (thiền định), đến khoảng 2 giờ sáng lúc canh tư, Ngài chứng “Lậu tận minh”, vô lậu, sạch hết trần cấu (sạch hết ô nhiễm). Biết rõ Khổ, nguồn gốc của đau khổ, cách trừ đau khổ, và con đường đạo qủa viên mãn. Ngài tự biết: “Ta đã giải thoát, không còn tái sinh nữa, tu hành viên mãn, việc làm đã xong, không còn trở lại trạng thái khi xưa nữa”.
Ngài từ từ mở mắt to ra chợt thấy sao Mai lấp lánh, hốt nhiên “Toàn Ngộ”, thấu triệt cùng khắp chân lý vũ trụ, thần thông quảng đại, Ngài đạt Đạo Vô Thượng, thành bậc “Chính Đẳng Chính Giác” nên được gọi là bậc Toàn Giác, Như Lai, hiệu Phật Thích Ca Mâu Ni.
II )- Từ Thành Đạo tới nhập Niết Bàn:
1)- Đức Phật hành Đạo
Sau khi thành Đạo, đức Phật quán khắp Vũ trụ, Ngài thấy có vô lượng thế giới, quán chúng sinh Ngài biết mỗi chúng sanh đều có Phật tính (tánh), vì chúng sinh ngụp lặn trong si mê tối tăm nên phải trầm luân trong biển sinh tử luân hồi không có ngày ra khỏi. Ngài quán và biết rằng con người hiểu được giáo lý nếu Ngài nói ra, và có người kham nhận được sự tu hành. Do đó, đức Phật quyết định sẽ giáo hóa chúng sinh cho dù có khó khăn như thế nào đi nữa. Ngài cũng phải làm nhiệm vụ của bậc Phật như tất cả chư Phật trong Vũ trụ đã làm, đang làm và sẽ làm để dẫn dắt chúng sanh ra khỏi khổ đau và được giải thoát. Sự hoằng pháp của đức Phật trên ba nguyên tắc:
a)- Hành Đạo theo thứ lớp:
Bắt đầu đức Phật nghĩ đến việc độ cho các bậc thiện tri thức là những người không còn nhiều trần cấu nhiễm ô, nghĩ đến đạo sĩ Alamara Kalama là vị đạo sư mà lần đầu tiên Ngài tìm đến tham học. Ngài dùng tuệ nhãn được biết vị này mới từ trần bảy ngày, Đức Phật lại nghĩ đến Uddaka Ramaputta là vị thứ hai, dùng mắt Phật nhìn, Ngài thấy vị này cũng vừa qua đời mới có một ngày!
1- Ba tháng đầu : Đức Phật nghĩ đến năm vị đồng tu khổ hạnh, Ngài bèn đi đến vườn Lộc Uyển xứ Benares gặp năm vị này là Kiều trần Như (Kondana), Bạc Đề (Bhaddiya), Thập Lực (Vappa), Ma ha Nam (Mahãnãma), và Ác Bệ (Assaji).
Lúc đầu, năm vị thấy đức Phật đến đều tỏ ra nghi ngờ và chỉ trích lối sống của Ngài, Đức Phật phải giải thích đến lần thứ ba rằng: “Không có vấn đề sống xa hoa trở về đời sống lợi dưỡng, Ta chỉ làm sao cho thân thể đủ sức chịu đựng để hành thiền kiên cố mà thôi. Đó là con đường trung đạo cần phải theo, và bây giờ Ta đã thành Đạo, đạt qủa vô sinh bất diệt, nếu người nào hành đúng như lời Như Lai dạy cũng sẽ chứng ngộ. Hơn nữa, nếu Như Lai không biết các ông ở đâu, làm sao tìm đến đây được?; vả lại, Ta chưa bao giờ nói những lời này với các ông, như vậy các ông đủ hiểu rồi”; bấy giờ năm vị mới tin, bỏ lối tu khổ hạnh và nghe Giáo pháp của Ngài.
Bài giảng đầu tiên là “Bốn Diệu đế”, do “Sinh, già, bệnh, chết” nên khổ, muốn khỏi khổ phải tìm nguyên nhân của khổ là do “Tham, sân, si …”, và phải diệt khổ bằng “Tám Chính đạo” là “Chính Kiến, Chính tư duy, Chính ngữ, Chính mệnh, Chính nghiệp, Chính tinh tấn, Chính niệm, và Chính định”. Cả năm vị học và hành trì dần dần đều đắc quả Thánh, nhưng vị đắc qủa A La Hán (Quả Ariya là quả A La Hán, Ariya có nghĩa là cao qúy) đầu tiên là Ngài Kiều Trần Như.
Thời ấy, tại Ấn Độ, ngoài quan điểm sống theo lối khổ hạnh để giác ngộ, còn có quan niệm cho rằng con người chết là hết, linh hồn và thân xác tan biến, tất cả chẳng còn gì. Hãy ăn uống tận hưởng mọi lạc thú ở đời, không cần biết đến đạo đức, khoái lạc là thực tế, không cần phải kiểm soát dục vọng. Không có luân hồi, không có tái sinh, không có qủa báo thiện ác, tất cả chỉ là bản năng tự nhiên mạnh được yếu thua v.v… Do đó, đức Phật đã phải đối phó với các quan điểm sai lầm ấy.
2- Thiết lập Tăng đoàn: Sau khi có năm đệ tử, đức Phật giáo hóa 55 Bà la môn mà ông Da xá (Yasa) là người dẫn đầu, số người này cùng với năm vị đầu tiên hợp lại là 60 và kể như thiết lập Tăng đoàn từ đây.,Ng ài dạy về “Bốn Diệu Đế” và “Tám Chính Đạo”. Cha mẹ và vợ của ông Da Xá là Phật tử tại gia đầu tiên của đức Phật. Sau ba tháng 60 vị đệ tử Phật đầu tiên này đã hành trì vững chắc và giữ giới luật đầy đủ, đều đắc A la Hán, Đức Phật thọ ký và cho các vị ấy đi hành đạo các nơi.
3- Thu nhận hàng loạt đệ tử: Còn Ngài đi xuống phiá Nam đến xứ Ưu Đầu Tuần La, thu phục Rắn lớn dữ trong phòng thờ lửa của người đứng đầu Đạo thờ Thần lửa là Uruvela Ca Diếp (Uruvelã Kassapa), vị này đem 500 đệ tử cùng xin xuất gia theo đức Phật tu hành. Vị này có hai người em đều ở mỗi người một nơi, một người tên Nadi Ca Diếp (Nadĩ Kassapa) có 300 đệ tử, và Gaya Ca Diếp (Gayã Kassapa) có 200 đệ tử. Cả hai người cũng thờ Thần lửa, khi thấy người anh đã theo đức Phật tu hành, họ cùng với đệ tử đến theo Ngài tu hành.
Ngài giảng cho 1000 đệ tử này về: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý nằm trong lửa, lửa từ tham ái, sân hận, si mê, sinh già bệnh chết, buồn phiền, đau khổ, tuyệt vọng; hãy quán nhàm chán hình sắc âm thanh, hương vị xúc, chán luyến ái. Do sự nhàm chán dứt khoát ấy, được giải thoát. Tất cả hành trì dũng mãnh nên đều chứng qủa Thánh.
4- Thu nhận hai đệ tử quan trọng: Sau khi thu nạp hơn 1000 đệ tử, đức Phật đến nước Ma Kiệt để thực hiện việc hứa với Vua Tần Bà Xa La là “Khi đắc Đạo sẽ trở lại”; khi Vua biết Ngài đã đắc Đạo rồi, mừng rỡ và cúng dường Phật và Đại chúng Đạo tràng “Trúc Lâm”.
Lúc ấy, Xá Lợi Phất (Upatissa) và Mục Kiền Liên (Kolita) cư ngụ gần thành Vương Xá (Rãjagaha), là bạn với nhau, có chí học đạo, đã tìm đến nhiều thầy, và học hết chữ thầy rồi cũng chưa thỏa mãn. Một hôm, Xá Lợi Phất thấy một Sa Môn đang đi khất thực trong thành Vương Xá với oai nghi của bậc Thánh nhân, nên để ý và đến hỏi. Vị này cho biết tên là Ác Bệ (Assaji) và qua câu chuyện, Xá Lợi Phất được Tôn giả Ác Bệ cho biết giáo pháp vắn tắt đã học là “Tất cả ở đời đều do nhân duyên sinh, Như Lai chỉ rõ nhân duyên ấy và cách diệt, đó là giáo huấn của vị Đại Sa Môn”; nghe những lời ấy, Xá Lợi Phất thấy trí tuệ bừng sáng, nên hỏi tiếp và được biết vị Đại Sa Môn đang ở “Rừng Trúc”.
Xá Lợi Phất liền đến tìm Mục Kiền Liên nói lại cơ duyên của mình và nói những lời Tôn giả Ác Bệ đã nói, Mục Kiền Liên nghe rồi cũng tỏ sáng vô cùng. Hai người hân hoan đem theo một số bạn đến Trúc Lâm xin xuất gia học đạo, đều được đức Phật thu nhận. Chỉ trong ít ngày cả hai vị đều đắc A La Hán, được đức Phật ấn khả cho hai vị Tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên là thượng thủ bậc nhất.
Sau đó đức Phật gặp Trưởng giả Cấp Cô Độc là người giầu có bậc nhất tại nước Xá Vệ. Trưởng giả đã phát tâm rộng lớn xây cất Đạo tràng Kỳ Hoàn ở phiá Bắc Ấn Độ để cúng dàng Ngài và đại chúng Tăng.
5- Trở về thăm quê hương: Lúc ấy vua Tịnh Phạn (Suddhodana) nghe tin Ngài đã thành Phật, liền sai sứ giả đi mời Ngài về thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavathu); nhưng chín lần cử chín sứ giả đi mà không có người nào trở lại, vì các vị này đến được đức Phật thuyết pháp nghe rồi ở lại xin xuất gia học Đạo. Tới vị thứ mười tên Tu Đà Di (Kãludãyi), vị này cũng ở lại học đạo, nhưng vẫn nhớ lời Vua, nên sau khi đắc đạo bèn thỉnh Phật về thăm Vua.
Dọc đường trở về nơi sinh thành trong hai tháng, gặp người nào đức Phật cũng giáo hóa độ cho hết thảy, khi về tới thành Ca Tỳ La Vệ, đức Phật chỉ ở lại có bảy ngày, nhưng đã giáo hóa tất cả hoàng gia. Tại đây lúc đầu vì có sự nghi ngờ của các bậc cao niên, nên Ngài đã dùng thần thông bay ngồi trên không, làm lửa và nước từ toàn thân phát ra. Sau đó có nhiều vị trẻ trong hoàng gia theo Ngài xuất gia tu đạo, như Nan Đà, A Nan Đà, A La Luật, La Hầu La là con ruột của Ngài lúc ấy mới bảy tuổi, v.v…
Không bao lâu sau, đức Phật biết Vua cha bệnh sắp qua đời liền về thăm, thấy Vua buồn rầu, Ngài nói về lý “vô thường, khổ, không, vô ngã”; nghe xong, gương mặt vui tươi, Vua cất tiếng niệm Phật rồi băng hà nhẹ nhàng. Sau khi Vua Băng hà, Hoàng hậu Ma ha Bà Xà Ba Đề (Mahã Pajãpaĩ) có con trai là Nan Đà (Nanda) đã xuất gia, và con gái tên Nan Đề (Nandã) (về sau cũng xuất gia), bà xin xuất gia lấy tên là Đại ái Đạo. Công chúa Da Du Đà La là vợ của Thái tử Sĩ Đạt Ta cũng xin xuất gia, Bà Đại Ái Đạo nhờ Tôn giả A Nan xin giùm đức Phật chấp nhận cho bà được xuất gia và thành lập Ni đoàn với điều kiện phải tuân thủ giới luật do đức Phật đặt ra.
b)- Tùy phương tiện:
Trong suốt đời đức Phật hành đạo, không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió, có những lúc Ngài phải đương đầu với những khó khăn chống đối; sự chống đối này thường là do những đạo sư của những ngoại đạo, tà đạo mê tín, và ngay cả những người muốn tranh giành ảnh hưởng với Ngài, nhưng tất cả đều được Ngài giải quyết êm xuôi.
1- Đối phó với khó khăn: Như có lần bị Bà la môn chửi bới thậm tệ, Ngài làm thinh không trả lời. Chửi bới một lúc thật lâu không thấy đức Phật phản ứng gì cả, người ấy hỏi: “Sao ông bị chửi như thế mà không trả lờì?” Ngài hỏi lại để đáp: “Nếu ông đem tặng qùa cho người khác mà người đó không nhận, qùa ấy thuộc về ai?”. Người ấy trả lời: “Qùa ấy thuộc về tôi”. Ngài bảo: “Lời ông chửi từ nãy đến giờ tôi không nghe, không nhận, trả lại cho ông”, lúc đó người ấy mới thôi chửi. Cũng có trường hợp tương tự như thế, nhưng đức Phật trả lời cách khác là : “Những lời chửi rủa cũng như người nhổ nước bọt từ miệng phun ra ngược chiều gió, chỉ làm dơ mặt người nhổ mà thôi”.
Có lần, con gái của ngoại đạo mang cái bụng to tướng đến la lối trước mọi người rằng “Cái bào thai trong bụng mà tác giả là Sa Môn Cù Đàm”, và đòi phải giải quyết ổn thỏa; Đức Phật chỉ làm thinh, rồi Ngài dùng thần thông làm rớt cái bụng giả của cô gái ra, mọi người cười ồ, cô gái xấu hổ cúi đầu đi mất, không dám nhìn lại.
Trong hạ thứ 20, đức Phật gặp Angulimala là người đã chặt 999 ngón tay của 999 người. Ngài dùng thần thông khiến kẻ ác không thể đuổi bắt Ngài được đến kiệt sức mà phải thốt lên: “Sa Môn, hãy dừng lại”. Ngài đáp: “Ta đã dừng từ lâu, còn ông chưa dừng bước”. Angulimala nói: “Tôi đã dừng rồi, Sa Môn còn đi, tại sao ông lại nói rằng tôi không dừng, còn ông đã dừng, tại sao ông nói thế?” Ngài đáp: “Như lai đã dừng luôn và mãi mãi, Như Lai đã dứt bỏ không còn hành hung một sinh vật nào, còn ông tiếp tục sát hại đồng loại với bàn tay đẫm máu, vì vậy Như Lai đã dừng và ông chưa dừng”. Nghe đến đó, Angulimala quăng bỏ hết vũ khí, đi đến gần đức Phật qùy lạy xin Ngài chấp thuận cho được theo học đạo, và đã được Ngài chấp thuận, sau đó Angulimala tinh tấn tu hành không bao lâu đắc qủa A La Hán.
2- Chấn chỉnh Tăng đoàn: Ngay cả trong Tăng đoàn, cũng có nhiều vấn đề, như lúc đầu Tăng chúng ăn uống không có khuôn khổ chừng mực, ăn sáng, ăn trưa, ăn chiều, ăn tối đủ cả. Đức Phật căn cứ vào những sự phiền hà và sự cần thiết cho việc tu hành, dần dần Ngài lập ra giới cấm càng ngày càng đầy đủ chặt chẽ hơn như chỉ ăn mỗi ngày một bữa trước buổi trưa.
Một việc xảy ra do Đề Bà Đạt Đa là em con cô và là em vợ của Thái tử Sĩ Đạt Ta. Vì muốn giành quyền đứng đầu Tăng đoàn mà Đề Bà đã làm nhiều việc không hay đối với đức Phật, như lăn đá trên sườn núi, dùng voi say, hay bôi thuốc độc vào móng tay để mong hại Ngài, nhưng đều thất bại, đến nỗi bị chết và đọa vào Địa ngục.
Đối với việc tu hành của tu sĩ, đức Phật đã tùy trường hợp để chỉ dạy, chứ không nhất thiết phải theo một đường lối nhất định cho mọi người. Đối với người thông minh hay đần độn, Ngài đều có những cách khác nhau để hướng dẫn. Như Tôn giả Chu Lợi Bàn Dặc Ca đần độn tụng một bài kệ bốn câu trong ba tháng không thuộc, khi sai đầu, khi quên đuôi, đức Phật thấy thế ban cho cách “đếm hơi thở ra vào lần đầu đếm một, hơi thở ra vào lần thứ hai đếm hai, cứ thế đếm đến mười, rồi lại đếm từ một đến mười như thế mãi mãi”. Sau đó ít lâu Tôn giả thấy tâm thanh tịnh không một gợn sóng, v.v…,được Phật chứng cho đạt bậc Thánh.
Tôn giả Đà La Nan Đà thường hay loạn động vì nghĩ đến tham dục, đức Phật dạy quán tướng trắng trên đầu chót mũi. Tôn giả La Vân hay buồn phiền lo nghĩ, đươc đức Phật dạy quán biết hơi thở ra dài biết hơi thở ra dài, hơi thở vào dài biết hơi thở vào dài, hơi thở ra ngắn hay lạnh, hay nóng, đều biết hơi thở ra ngắn hay lạnh, hay nóng v.v…; cả hai Tôn giả chỉ trong thời gian ngắn là đắc qủa A La Hán.
Đối với hết thảy các đệ tử trong khi tu hành ở mọi nơi, Ngài quán sát mỗi ngày, rồi dùng thần thông đến chỉ bảo.
c)- Theo tinh thần bình đẳng:
Tinh thần bình đẳng là một điểm son trong giáo lý của đức Phật, trong Tăng đoàn có đủ các thành phần trong xã hội; từ người thuộc giai cấp cao nhất như hàng hoàng gia quyền bính, Bà la môn qúy tộc, đến hàng dân giả nghèo nhất đều có mặt tu hành và cùng đạt quả Thánh.
2)- Hành Đạo hàng ngày:
Chương trình mỗi ngày của đức Phật thật khít khao không có kẽ hở, từ 5 giờ sáng ra khỏi phòng thất, làm vệ sinh tắm rửa, xong ngồi quán sát, hoặc đi kinh hành xong quán sát thế gian xem có ai (kể cả các đệ tử ở khắp các nơi) cần độ trong nhân gian, Ngài dùng thần thông đến liền. Tới 9 giờ sáng thuyết pháp cho chúng Tăng. Từ 10 hoặc 11 giờ đi khất thực, đi thụ trai nếu có người thỉnh. Sau khi thọ trai về, Ngài nằm nghiêng bên phải định thần một lúc, tới 1 giờ chiều, Ngài nhập Đại Bi Định quán sát thế gian. Từ 2 hoặc 3 giờ chiều thuyết pháp cho thiện nam tín nữ, Ngài dùng Phật nhãn để nhìn vào tâm tính mỗi người mà tùy căn cơ hóa độ. Từ 7 giờ tối Ngài giảng và giải thích thắc mắc cho đệ tử đề tài thiền, tới 9 giờ tối, Ngài ngồi quán sát thế gian, có khi đi kinh hành xong ngồi nhập Đại Định. Từ 11 giờ đêm đến 4 giờ sáng, Ngài nhập Đại Định, rải tâm Từ khắp chúng sinh. Nhiều đêm các vị Trời từ các tầng Trời thường hay đến chiêm bái và học giáo lý của đức Phật. Tất cả các buổi tham bái ấy đều xảy ra vào từ nửa đêm đến khoảng bốn giờ sáng. Như có lần Vua Trời Đạo Lợi, cũng gọi là Đế Thiên Thích, mà người đời gọi là Ngọc Hoàng Thượng Đế đến tham bái đức Phật trong lúc Ngài đang nhập Định lửa tam muội trong động Nhẫn Đà Bà Là khiến cả vùng núi Tỳ Đà đỏ rực một màu lửa. Như vậy về đêm Ngài thường nhập Đại Định và quán sát thế gian, vũ trụ, hoặc tiếp dạy các vị Trời. Từ 4 giờ sáng Ngài nằm nghiêng bên phải định thần đến 5 giờ sáng.
Mỗi năm đức Phật đi hành đạo giáo hóa suốt chín tháng không mưa, còn ba tháng mưa, Ngài an cư tại một đạo tràng trong nước Ấn Độ, gọi là “An cư kiết hạ”.
Suốt 45 năm, dấu chân đức Phật và các đệ tử của Ngài khắp xứ Ấn Độ, ở đâu Ngài và đệ tử cũng được đón nhận chào mừng; từ hàng vua quan đến dân giả, từ người già cả đến các trai trẻ, từ nam tới nữ, từ người giàu đến kẻ nghèo, đều tắm gội trong ánh sáng trí tuệ và gió mát từ bi do Ngài ban rải khắp cùng. Nơi nào có mặt Ngài và đệ tử Ngài, là nơi đó tà giáo, ngoại đạo lui xa, tan biến như bóng tối, sương mai trước ánh mặt trời hiện.
3)- Các thời nói Kinh:
Sự nói Kinh được các Phật tử sau này chia ra làm năm thời như sau:
1- Thời thứ nhất: Đức Phật nói Kinh Hoa Nghiêm, khi mới thành đạo. Ngài nói Kinh này để vạch chân tánh, chỉ rõ chỗ cao siêu nhiệm mầu của Đạo Phật
2- Thời thứ hai: Đức Phật nói Kinh A Hàm, thời kỳ này dài 12 năm đầu để dạy về tự tu, tự độ cho mình.
3- Thời thứ ba: Đức Phật dạy Kinh Phương Đẳng, thời này dài 8 năm kế. Đức Phật nói: “Đã tự độ rồi, còn phải độ tha”, tức là độ mình và độ cho người, trình độ các đệ tử cao hơn một bậc.
4- Thời thứ tư: Đức Phật nói Kinh Bát Nhã, thời này kéo dài 17 năm; tới thời này, trình độ dạy giáo thuyết cao hơn nữa, tiến tới giáo thuyết chân không, vũ trụ, thật tướng, vô tướng của các pháp.
5- Thời thứ năm: Đức Phật nói Kinh Pháp Hoa, Niết Bàn, thời kỳ này dài 8 năm; khi ấy các đệ tử Phật đã thuần thục, có thể gánh vác việc đạo, nên Ngài giảng việc thị hiện vì bản nguyện “Khai thị chúng sinh nhập tri kiến Phật”. Ngài thụ ký cho 1250 đệ tử sẽ thành Phật tùy căn cơ mỗi người mà thọ ký mau hay lâu, và việc thuyết pháp độ sinh của Đức Phật đã đầy đủ viên mãn.
4)- Đức Phật nhập Niết Bàn:
1- Đức Phật tuyên bố nhập Niết Bàn trước ba tháng: Việc độ chúng sanh đã viên mãn, Ngài chứng tỏ cho mọi người: “Xác thân vô thường”, vì xác thân do bốn đại: “đất, nước, gió, lửa” tạo thành trở về với bốn đại, cũng như chiếc xe lâu ngày phải cũ hư. Đó là lý vô thường đương nhiên phải như thế, cái còn lại là giáo lý chân thật, bất hư mà đức Phật đã giảng dạy trong suốt 45 năm; giáo lý chân thật đầy đủ cho mọi người theo đó học hỏi hành trì để đạt được chân lý giải thoát khỏi luân hồi sinh tử.
2- Đức Phật nói Kinh Di Giáo: Ngài dặn Tôn giả A Nan là Thị giả của Ngài rằng: “Sau khi Ta Nhập Niết Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi, thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với giáo pháp nào khác. Hãy nương tựa nơi chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác”, Ngài nói tiếp: “Ái ân là vô thường, nếu có xum hợp, phải có chia lià; nhất là thân này không phải ta, mạng sống không tồn tại mãi mãi được”.
3- Đức Phật nhập Niết Bàn: Ngài nhập Niết Bàn tại rừng Ta La nước Câu Thi La giữa hai cây Long Thọ vào nửa đêm ngày mồng 8 tháng hai âm lịch, năm 543 trước Dương lịch. Sau đó được dân chúng Mạt La thành Câu Thi cùng các đệ tử Phật cúng dàng thân Phật, rồi trà tỳ (thiêu) và chia Xá Lợi Phật cho 8 (tám) nước rước về xây tháp để mọi người chiêm bái, cúng dường.
III )- Trí huệ siêu việt của đức Phật.
Để biết về trí huệ của đức Phật Thích Ca, chúng ta nên lược trích Kinh Hoan hỷ trong Trường A Hàm, quyển 1 trang 607. Tôn Giả Xá Lợi Phất nói ra một số trong muôn sự tuyệt vời vô thượng của đức Phật như sau:
Một thời, đức Phật ngự tại rừng Ba bà lợi am bà, xứ Na lan đà, có đầy đủ 1250 vị Tỳ kheo. Khi ấy, Tôn giả Xá lợi Phất bạch Phật:
– Khi con ở trong tinh thất một mình nghĩ rằng “các Sa môn, Bà la môn trong qúa khứ, hiện tại, vị lai, về phương diện trí huệ, thần thông, công đức, đạo lực, không một ai bằng đức Thế Tôn, chứ đừng nói là hơn”.
Đức Phật bảo Tôn giả Xá lợi Phất:
– Lành thay, lành thay, Ông ở trước Như Lai nói lên lời như vậy, đồng thời thụ trì, chính Ông đã rống tiếng rống sư tử. Thế nên Sa môn, Bà la môn không ai bằng Ông.
Nhưng này Xá lợi Phất, Ông có biết được tâm niệm chư Phật qúa khứ, chư Phật hiện tại trong mười phương có giới, có pháp, có trí huệ, giải thoát, an trú giải thoát như thế nào không?
– Bạch Thế Tôn, con không biết.
– Tâm niệm chư Phật qúa khứ hiện tại vị lai trong mười phương Ông chẳng thể biết; tại sao Ông khởi lên ý nghĩ như vậy? Do nguyên nhân nào khiến Ông sinh ý nghĩ ấy? Liệu các Sa môn, Bà la Môn có tin lời Ông nói không?
– Thưa Thế Tôn, con ở trong qúa khứ hiện tại vị lai, tuy về tâm niệm chư Phật con không biết được, nhưng về pháp (giáo lý) tổng tướng của Như Lai con có thể biết được. Thế Tôn vì con nói pháp hắc bạch (trắng đen), pháp nhân duyên, pháp đối chiếu, pháp cao xa vi diệu. Con nghe xong biết mỗi pháp đều ở trong pháp cứu cánh, đồng thời con tin đức Như lai là bậc chí chân Đẳng Chính Giác khéo phân biệt các pháp là tối thượng.
Đức Thế Tôn nói pháp “chế ngự vô thượng” như Bốn Niệm Xứ, Bốn Chính Cần, Bốn Thần Túc, Bốn Thiền, Năm Căn, Năm Lực, Bảy Giác Chi, Tám Thánh Đạo. Vì thế cho nên trí huệ của Thế Tôn thật tuyệt vời, thần thông tuyệt vời, từ hàng Sa Môn Bà la môn không ai bằng đức Như Lai, huống là muốn hơn.
Ba là Đức Thế Tôn nói pháp vô thượng về “thức nhập thai”. Có bốn hạng nhập thai: Một là hạng không biết mình nhập thai, không biết mình ở trong thai, không biết mình ra khỏi thai; hầu hết mọi người ở hạng này. Hai là hạng biết mình nhập thai, nhưng không biết mình ở trong thai và không biết mình ra khỏi thai. Ba là hạng biết mình nhập thai, biết mình ở trong thai, nhưng không biết mình ra khỏi thai. Bốn là hạng biết mình nhập thai, biết mình ở trong thai, và biết mình ra khỏi thai; vì thế, đức Thế Tôn có trí huệ tuyệt vời, có thần thông tuyệt vời, không một ai ngang bằng huống là muốn hơn.
Đức Thế Tôn nói pháp “tha tâm thông”vô thượng, có người chẳng suy nghĩ, chẳng nghe phi nhân mách bảo, chẳng tự nghiệm thân mình, cũng chẳng nghe người khác nói, mà quán sát thẳng người khác, quán sát và nói: “Tâm người này thế này, tâm người kia thế kia”. Quán sát như thế mới là chân thật.Thế nên pháp này là tối thượng, trí huệ tuyệt vời, thần thông diệu dụng, không ai bằng đức Thế Tôn, chứ đừng nói là muốn hơn.
Đức Thế Tôn nói pháp “giải thoát trí” vô thượng, do nhân duyên, đức Thế Tôn nói “người này đắc quả Tu đà hoàn, người kia đắc quả Tư đà hàm, A na hàm, A la hán”; thế nên pháp này là vô thượng, trí huệ tuyệt vời, thần thông diệu dụng, không một ai bằng đức Thế Tôn, huống là muốn hơn.
Đức Thế Tôn nói pháp “túc mệnh thông” vô thượng, khiến người thực hành nhập định ý tam muội, họ nhớ một đời, hai đời, ba đời, mười đời, trăm đời, nghìn đời, vô số đời. Đời nào tên gì, bố mẹ ra sao, sống như thế nào, làm nghề gì, vợ con ra sao, tuổi thọ thế nào v.v… đều nhớ biết tất cả; thế nên, pháp này là vô thượng, không có ai bằng đức Thế Tôn, đừng nói là muốn hơn.
Đức Thế Tôn nói pháp “sinh tử thông” vô thượng, có người tu tập dùng định ý tam muội, do tâm nhập định, vị ấy quán sát các chúng sinh, thấy rõ sự chết sinh của họ đều theo nghiệp đã tạo, nên có kẻ xấu người đẹp, có kẻ sinh vào chỗ khốn nạn, có người sinh vào chỗ sung sướng. Thấy rõ tất cả đều do thân làm, miệng nói, ý nghĩ lành ác mà vào chỗ tốt hay chỗ xấu; thế nên, pháp này là vô thượng, trí huệ tuyệt vời, thần thông diệu dụng, không một ai có thể ngang bằng đức Thế Tôn, huống nói là muốn hơn.
Lại nữa, đức Thế Tôn nói pháp “Như ý túc thông” vô thượng, có đệ tử học, dùng phương tiện nhập định tam muội, do tâm nhập định, nên tạo vô số thần lực. Vị ấy có thể biến một thân thành vô số thân, vô số thân hợp lại một thân. Đi qua tường vách núi sắt đá không trở ngại, đi trên mặt nước như đi trên đất, đi trong đất như lặn xuống nước, đi trên không như chim bay; vị ấy có thể phát ra khói, ra nước như mưa, ra lửa cháy hừng hực, lại có thể biến thân hình cao lớn tới trời Phạm, dơ tay sờ mặt trăng mặt trời; thế nên, tất cả trời người trong quá khứ, hiện tại, vị lai, không ai bằng đức Thế Tôn, huống là muốn hơn. Chỉ có chư Phật qúa khứ, chư Phật hiện tại, chư Phật tương lai trong mười phương là bằng đức Như Lai mà thôi.. . .
Leave a Reply