Các vị Phật tổ theo dòng truyền thừa không gián đoạn mật tông Tây Tạng Drikung Kagud
Phật Kim Cương Trì
Vajradhara nghĩa đen là bậc trì giữ kim cương. Đức Phật Kim Cương Trì Vajradhara là Đức Phật nguyên thủy, hiện thân của tất cả chư Phật trong ba đời và là tinh túy của tam thân – thân của chư Phật. Đức Phật Kim Cương Trì cũng biểu trưng cho Pháp thân Phật và khía cạnh tuyệt đối của sự giác ngộ.
Phật Vajradhara là sự biểu lộ cao nhất của giác ngộ, sự đại diện thấy được của Pháp thân. Nghĩa đen của “Vajra” là kim cương, nhất là trong phương diện cứng chắc không thể bể nát của nó. Trong nghĩa cao hơn, Vajra để chỉ bản tánh nội tại của giác ngộ – sự hợp nhất bất khả hoại và bất khả phân của trí huệ siêu việt và lòng bi vô hạn, cũng như lạc tối thượng và tánh không tối hậu.
Là sức mạnh vũ trụ tối cao khởi từ cõi giới Pháp thân, Vajradhara tượng trưng sức mạnh hợp nhất tối thượng và nguồn bi mở khắp. Trong Vajradhara mọi hình tướng Báo thân, mọi phẩm tính và công năng của chúng được thống nhất. Từ đó Vajradhara được diễn tả là sự thống nhiếp toàn khắp của mọi thuộc tính của giác ngộ.
Ngài là hiện thân của sự tinh túy siêu việt của Phật tính với tay phải trì giữ chày Kim cương (biểu thị phương tiện), tay trái của Ngài giữ linh (biểu hiện trí tuệ). Hai tay bắt chéo trước ngực, Kim cương trì là sự đại diện tuyệt đối của Bất nhị và tánh Không đó là Mahamudha (Đại ấn), sự hợp nhất vĩ đại – sự chứng thực tuyệt đối. Đây là mục đích tối thượng mà tất cả các hành giả đều tinh tiến nỗ lực vươn tới.
Trong Truyền thống Mới, Ngài là Đức Phật nguyên thuỷ, nguồn mạch của mọi tantra. Trong Truyền thống Cũ, Vajradhara tượng trưng cho nguyên lý của vị Thầy như bậc trì giữ giác ngộ của giáo lý Kim Cương Thừa.
Trong mật thừa, Đức Phật Kim Cương Trì là tâm điểm của dòng truyền thừa Kagyu bởi vì tổ của dòng là Đức Tilopa đón nhận trực tiếp giáo pháp Kim Cương Thừa từ Đức Kim Cương Trì, đức Báo thân Phật. Trong dòng Nyingma, Đức Kim Cương Trì được coi là bất khả phân với Đức Liên Hoa Sanh. Trong hiển thừa, ngài chính là vị cư sĩ vĩ đại Duy Ma Cật đã giúp Phật Thích Ca dạy dỗ các đại đệ tử và bồ tát 2500 năm trước.
Tilopa (988 – 1069)
Ngài Tilopa (988 – 1069) hiện thân trong một gia đình Bà la môn ở Đông Bengal, Ấn Độ. Khi còn là một cậu bé chăn cừu, Ngài đã hạnh ngộ Bồ Tát Long Thụ, đón nhận các giáo pháp Đại Thừa căn bản và được Bồ Tát Long Thụ cử làm người trị vì vương quốc ở Bhalenta. Sau nhiều năm sống trong nhung lụa giàu sang, Tilopa quyết định từ bỏ vương quốc để xuất gia tu hành. Ngài thụ giới tỳ kheo tại Mật viện Somapuri ở Bengal và bắt đầu sự nghiệp tu học tại đây.
Sau đó trong một linh kiến của mình, Tilopa tiếp thọ chỉ thị của một vị Dakini về con đường đốn ngộ mật giáo và được truyền toàn bộ giáo pháp Chakrasamvara Tantra.
Ngoài ra, Tilopa còn được thụ nhận rất nhiều giáo pháp từ các đại đạo sư mật thừa như: Đại dịch giả Acharya Charyawa và Thành tựu giả Lawapa. Ngài tinh thông pháp Bardo (trạng thái trung ấm giữa chết và tái sinh), Phowa (chuyển di tâm thức), Tummo (nội hỏa) cùng vô số các giáo pháp khẩu truyền khác. Mặc dù Tilopa có rất nhiều các đạo sư giác ngộ hiện thân trong loài người nhưng bản sư của Ngài là Đức Phật Kim Cương Trì, Ngài là bậc Thầy trực tiếp truyền cho Tilopa nhiều giáo pháp mật thừa trong đó có cả pháp tu Mahamudra.
Tilopa đã chí tâm kiên định suốt mười hai năm để hành trì các giáo pháp này, Ngài có một vị yogini phối ngẫu bí mật. Sau đó, Ngài ra khỏi tự viện, sống ẩn dật trong suốt quãng đời còn lại và đã trở thành một Đại đạo sư trứ danh. Trong số đệ tử của mình, Tilopa đã chọn Naropa làm người kế tục dòng truyền thừa.
Naropa (1016 – 1100)
Đại Thành Tựu Giả Naropa sinh ra trong một gia đình quý tộc ở xứ Bengal, Ấn Độ. Lòng khao khát tìm cầu khai mở tâm linh của Ngài mạnh mẽ đến mức ngay từ khi mới lên tám, Ngài đã lên đường đi Kashmir để học đạo và thụ tam quy ngũ giới với đạo sư Arya Akasha.
Khi Naropa trở về sau các chuyến tham học Phật Pháp, cha mẹ ép buộc Ngài phải cưới công chúa Bà la môn. Tuy nhiên, cuộc sống gia đình chỉ kéo dài trong tám năm. Naropa luôn nhất tâm chỉ tưởng tu hành Phật Pháp do đó đã bày tỏ chí hướng tâm linh của mình với công chúa và nàng đồng ý không cản trở con đường tu hành của Ngài.
Naropa thụ giới sa di tại Lạc Viên Tự viện (Happy Garden Monastery), sau đó thụ giới Tỳ kheo tại Kashmir. Ngài an trú tại tự viện Pullahari để tiếp tục tu học, ngoài ra Ngài thụ nhận thêm các giáo pháp và tu tập tại trường Đại học Nalanda ở gần đó.
Với trí tuệ, tài hùng biện và sự hiểu biết tâm linh, Naropa được phong làm viện trưởng Đại học Nalanda danh tiếng – nơi Ngài trở thành vị Bảo Hộ Trấn Cửa Phương Bắc. Ngài thường phải tranh biện với các phái ngoại đạo và luôn giành phần chiến thắng.
Mặc dù xuất chúng về phương diện giáo lý Phật Pháp nhưng Ngài nhận thấy mình rất kém cỏi về phương diện tu tập đạo tâm. Vì vậy, một vị Dakini đã xuất hiện trước Ngài, giảng dạy về tầm quan trọng của thiền định và khuyên Ngài thỉnh giáo Đại Đạo Sư Tilopa, người có thể khai thị cho Ngài thực chứng bản tâm.
Sau bao nhiêu thử thách cuộc hành trình hướng về phương Đông, cuối cùng Naropa cũng hạnh ngộ Bản Sư Tilopa. Naropa đã phải vượt qua mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ để tịnh hóa ác nghiệp và những ám chướng. Nhờ sự gia trì của Tilopa và sự tịnh hóa của chính mình, Naropa thực chứng được bản tâm quang minh tịch tĩnh, thể nhập tự tính Vajradhara. Sau khi thành tựu giác ngộ huy hoàng, Naropa truyền dạy Phật Pháp cho vô số đệ tử ở rất nhiều nơi đặc biệt tại vùng Kashmir, nơi có rất nhiều ngôi tự viện do chính Ngài xây dựng. Trong lịch sử Phật Giáo, Ngài Tilopa và Naropa đều là trong số tám mươi tư Đại thành tựu giả.
Trong số những đệ tử thành tựu của Naropa, Đại dịch giả Marpa kế tục dòng truyền thừa Naropa và là Đấng hoằng truyền toàn bộ giáo pháp vào Tây Tạng.
Marpa (1012 – 1096)
Marpa sinh trưởng tại Chukhyer miền Nam Tây Tạng. Ngài học tiếng Phạn và thụ nhận một số giáo pháp từ Lama Drogmi Lotsawa thuộc dòng Sakya. Không bằng lòng với sự tu học này, Marpa quyết định bán hết tất cả tài sản của mình lấy vàng để đi Ấn Độ tìm cầu giáo pháp và truyền bá về Tây Tạng.
Trên chuyến hành trình tới Ấn Độ đi qua Nepal, Marpa đã gặp gỡ và thụ nhận giáo pháp từ hai đệ tử của Ngài Naropa là Kantapa và Pentapa. Marpa có ấn tượng sâu đậm với hai Ngài đến nỗi quyết định tìm gặp trực tiếp Naropa xin được thụ pháp. Marpa tu học dưới sự chỉ giáo của Naropa trong suốt nhiều năm. Ban ngày Ngài thụ pháp, ban đêm chuyên tâm hành trì, vì vậy Ngài thành thục cả hai phương diện giáo lý và thực hành của Đại Thừa cũng như Kim Cương Thừa. Cuối cùng, Naropa truyền cho Marpa làm người kế tục dòng truyền thừa Tây Tạng và huyền ký rằng: Dòng truyền thừa của Ngài sẽ hưng thịnh ở Miền Đất Tuyết.
Vì lợi ích của người dân Tây Tạng, Marpa thực hiện nhiều cuộc hành trình đến Ấn Độ, Nepal và mang rất nhiều giáo pháp về Tây Tạng, chuyển dịch từ tiếng Phạn sang tiếng Tạng. Ngài đã vượt qua vô vàn khó khăn thử thách, nhiều khi suýt mất mạng trong cuộc hành trình gian nan tìm cầu Phật Pháp. Ngài hạnh ngộ vô số bậc đạo sư trong đó Naropa và Maitripa là hai đại đạo sư quan trọng nhất.
Mặc dù Ngài là bạch y cư sĩ, đã lập gia thất nhưng sự chứng ngộ của Ngài là vô song, thanh tịnh không chút nhiễm ô giống như hoa sen mọc lên từ bùn lầy. Đối với Ngài, luân hồi và niết bàn là bất nhị, hết thảy sắc tướng thế tục với Phật tính đều không khác. Vì thế, Ngài có thể vẫn sống trong cuộc đời trần lụy mà không bị nhiễm ô. Marpa thực sự đã đốn chứng thể Kim Cương Trì hay Phật tính ngay trong một đời.
Ngài phiên dịch rất nhiều giáo pháp Mahamudra, Kim Cương Thừa sang tiếng Tạng đồng thời hoằng dương giáo pháp rộng khắp. Ngài đã chọn Milarepa làm người kế tục dòng truyền thừa.
Milarepa (1052 – 1135)
Đại hành giả yogi Milarepa sinh trưởng tại tỉnh Gungthang miền Tây Tây Tạng. Ngài là con trai của một chúa đất giàu có tên là Mila Sherab Gyaltsen. Nhưng năm lên bảy tuổi, cha Ngài lâm trọng bệnh và qua đời, trước đó ông đã giao phó toàn bộ gia sản và gửi gắm vợ con mình cho chú thím của Milarepa rồi dặn dò khi nào Milarepa trưởng thành thì chú thím phải trả lại tài sản cho Milarepa và cô em gái.
Thế nhưng sau khi cha Ngài mất, người chú và người thím xấu xa tước đoạt toàn bộ gia tài, họ còn bắt ba mẹ con Milarepa phải làm việc như những kẻ nô bộc trên đồng ruộng mà không được trả công. Khi Milarepa lớn lên, chú thím không những không trả lại gia sản mà còn cho rằng đó là phần mà cha Ngài phải trả nợ cho họ. Tức giận và cảm thấy bị sỉ nhục, mẹ của Milarepa gửi Ngài đi học huyền thuật để trừng phạt những kẻ vong ân bội tín.
Chẳng bao lâu sau, Milarepa thành thục quyền năng huyền thuật hủy diệt và trong khi trả thù chú thím, Ngài đã sát hại rất nhiều người vô tội. Vô cùng hối hận trước những ác nghiệp của mình, Ngài quyết định đi tìm thầy học đạo để tịnh hóa tội chướng. Milarepa gặp Đạo sư Lama Rongton dòng Nyingma và được truyền trao giáo pháp Dzogchen. Nhưng vì Lama Rongton nhận thấy Milarepa có nhân duyên đời trước với Marpa nên Ngài khuyên Milarepa đi tìm gặp Marpa, người có thể dẫn dắt Milarepa đến bờ đại giải thoát.
Để tịnh hóa những ác nghiệp của Milarepa, đại đạo sư Marpa bắt Milarepa phải thực hiện rất nhiều nhiệm vụ khó khăn trước khi dạy Ngài giáo pháp. Tự một mình Milarepa xây dựng tòa nhà hình tròn ở phương đông, tòa nhà bán nguyệt ở phương tây, tòa nhà hình tam giác ở phương bắc và tòa nhà hình vuông ở phương nam. Nhưng cứ hễ vừa sắp xây xong tòa nhà nào thì Marpa lại bắt phá đi, xây lại theo hướng khác. Cuối cùng, sau khi Milarepa hoàn thành xong một tòa nhà cao chín tầng theo sự chỉ dạy của Marpa, Marpa mới chính thức bắt đầu truyền dạy giáo pháp cho Milarepa, và xem Milarepa như người con tâm huyết của mình.
Milarepa tu tập với lòng dâng hiến sâu xa, với tâm đại xả ly và sẵn sàng chấp nhận khó khăn thử thách. Ngài trở thành du sĩ Yogi quan trọng nhất vào thời đại đó và thành tựu đại giác ngộ ngay trong một đời. Gampopa và Rechungpa là hai đại đệ tử trứ danh của Ngài. Gampopa được ví như mặt trời còn Rechungpa được ví như mặt trăng. Gampopa được chọn làm người kế tục dòng truyền thừa Milarepa.
Gampopa (1079 – 1153)
GampopaGampopa sinh ra trong bộ tộc Nyi tại Nyal thuộc miền Nam Tây Tạng. Ngài được phụ thân nuôi dưỡng, dạy dỗ thành một thầy thuốc. Năm 16 tuổi, Gampopa đã là một thầy thuốc trứ danh và một đại học giả tinh thông về Mật Thừa. Gampopa lập gia đình và có hai con nhưng vợ con Ngài đều bị chết trong một đại dịch. Sự trải nghiệm thương đau này đã khiến Gampopa xả bỏ đời sống thế tục, xuất gia tu hành.
Năm 25 tuổi, Gampopa thụ giới Tỳ kheo từ Khenpo Lodan Sherab ở Maryul. Sau đó, Ngài đến miền trung Tây Tạng học giáo pháp Kadampa và bắt đầu nhập thất tĩnh tu thiền định.
Lần đầu tiên nghe thánh danh Milarepa, Ngài lập tức cảm thấy trong mình trào dâng lòng sùng kính sâu xa và nhận ra rằng Milarepa chính là đức Bản sư tiền định của mình. Gampopa bán hết nông trang lấy vàng cho chuyến đi tìm gặp Milarepa ở miền Tây Tây Tạng. Milarepa nhận ra Gampopa chính là đệ tử và truyền trao toàn bộ giáo pháp dòng Kagyud cho Ngài. Sau khi thụ giáo với Milarepa, Gampopa đi tới Dagpo để nhập thất tu tập thiền định trong nhiều năm và xây dựng ngôi tự viện Dagla Gampo.
Gampopa đã trước tác rất nhiều kinh luận quan trọng như: ‘Giải Thoát Trang Nghiêm Bảo’ và ‘Thành Tựu Đạo Thù Thắng Bảo Man Tập’. Đây là hai trong số những cuốn luận nổi tiếng nhất của Ngài cho tới tận ngày nay. Bốn đại đệ tử của Gampopa thành lập nên bốn truyền thừa là: Karma, Phagdru, Shangpa và Darom. Sau này, từ Phagmodrupa (Phagdru) lại thành lập tám truyền thừa của dòng Kagyud là: Lingre, Drikung, Taglung, Yasang, Trophu, Shugseb, Yelba và Martsang.
Phagmo Drukpa (1100 – 1170)
Phagmo Drupa sinh ra trong một gia đình nghèo làm nghề không lương thiện ở tỉnh Kham miền Đông Tây Tạng. Mặc dù vậy, Ngài không hề bị ảnh hưởng bởi nghề nghiệp của gia đình. Ngay từ trước khi hạnh ngộ Gampopa, Phagmo Drupa đã có đầy đủ những phẩm chất của một Thành tựu giả. Trong mọi cử chỉ hành động, Ngài đều khiêm cung và bình đẳng với tất cả mọi người bất kể địa vị xã hội như thế nào, bất kể giàu hay nghèo. Ngài đặc biệt từ bi thương xót những người gặp cảnh ngộ bất hạnh và thường hay bố thí tài vật cho họ mặc dù ngay bản thân mình cũng không có đủ.Mặc dù đã đạt được những thành tựu như vậy nhưng Phagmo Drupa vẫn cảm thấy mình cần sự chỉ dạy của một bậc Thầy giác ngộ. Do đó, Ngài viếng thăm tự viện Dagla Gampo. Ngay giây phút hạnh ngộ Gampopa và sau một thời gian đàm đạo ngắn, Phagmo Drupa lập tức chứng ngộ bản tâm trí tuệ và hoàn toàn thực chứng viên mãn chân lý tuyệt đối. Trong những ngày tiếp theo, Ngài hoàn toàn thành thục đốn chứng Mahamudra.
Pháp vương Jinten Sumgon (1143-1217)
Đây là vị tổ lừng danh là đấng bảo hộ ba cõi trong Phật giáo Tây tạng. Ngài sinh năm 1143 tại tỉnh Kham miền đông Tây tạng trong gia đình Drugyal Kyura. Ngài đã thành quả vị Phật ngay trong đời này và là đệ tử tâm đắc nhất của đức Phagmo Drupa. Khi ngài nghe tên đức Phagmo Drupa ngài đã tràn trề tâm hỉ lạc và nhận ra đây chính là vị thầy của mình. Ngài được đức Phagmo Drupa ấn chứng là đệ tử Chân Truyền của ngài.
Ngài lập ra dòng truyền thừa Drikung Kagyupa và đại tu viện Drikung Thil Tây Tạng cho đến ngày nay.
Nguồn: Tổng hợp
Leave a Reply